CÁC BÀI THƠ KÝ TÊN T. T. Kh. – T. T. Kh.

HAI SẮC HOA TI-GÔN
23/9/1937
T. T. Kh.

Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ người đến với yêu đương

Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dải đường xa vút bóng chiều phong
Và phương trời thẳm mờ sương cát
Tay vít giây hoa trắng chạnh lòng

Người ấy thường hay vuốt tóc tôi
Thở dài trong lúc thấy tôi vui
Bảo rằng: hoa giống như tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi

Thuở đó nào tôi đã hiểu gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly
Cho nên cười đáp: Màu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biến suy

Đâu biết lần đi một lỡ làng
Dưới trời đau khổ chết yêu đương
Người xa xăm quá, tôi buồn lắm!
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường

Từ đấy thu rồi, thu lại thu
Lòng tôi còn giá đến bao giờ
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
Người ấy, cho nên vẫn hững hờ

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi
Mà từng thu chết, từng thu chết
Vẫn giấu trong tim bóng một người

Buồn quá! Hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhưng hồng, tựa trái tim tan vỡ
Và đỏ như màu máu thắm pha

Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một mùa thu trước rất xa xôi

Đến nay tôi hiểu thì tôi đã
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi

Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ
Chiều thu, hoa đỏ rụng chiều thu
Gió về lạnh lẽo, chân mây trắng
Người ấy sang sông đứng ngóng đò

Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời ơi, người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng

 
BÀI THƠ THỨ NHẤT
20/11/1937
T. T. Kh.

Thuở trước hồn tôi phơi phới quá,
Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương…
Nhưng mà nghệ sĩ từ đâu lại,
Êm ái trao tôi một vết thương.

Tai ác ngờ đâu gió lạ qua,
Làm kinh giấc mộng những ngày hoa,
Thổi tan tâm điệu du dương trước
Và tiễn Người đi bến cát xa.

Ở lại vườn Thanh có một mình,
Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh;
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo,
Yêu bóng chim xa, nắng lướt mành.

Và một ngày kia tôi phải yêu
Cả chồng tôi nữa lúc đi theo
Những cô áo đỏ sang nhà khác,
– Gió hỡi! làm sao lạnh rất nhiều?

Từ đấy không mong, không dám hẹn
Một lần gặp nữa dưới trăng nghiêm,
Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ,
Người ấy ghi lòng:"vẫn nhớ em!"

Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên,
Bỗng ai mang lại cánh hoa tim
Cho tôi ép nốt lòng dư lệ
Rỏ xuống thành thi khóc chút duyên?

Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ
Đã bọc hoa tàn dấu xác xơ!
Tóc úa giết dần đời thiếu phụ…
Thì ai trông ngóng, chả nên chờ!

Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá
Vì tôi còn nhớ hẹn nhau xưa:
– "Cố quên đi nhé, câm mà nín
Đừng thở than bằng những giọng thơ!"

Tôi run sợ viết; lặng im nghe
Tiếng lá thu khô siết mặt hè
Như tiếng chân người len lén đến.
– Song đời nào dám găp ai về!

Tuy thế, tôi tin vẫn có người
Thiết tha theo đuổi nữa, than ôi
Biết đâu… tôi: một tâm hồn héo,
Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi!

 
BÀI THƠ CUỐI CÙNG
30/10/1938
T. T. Kh.

Anh hỡi tháng ngày xa quá nhỉ?
Một mùa thu cũ, một lòng đau…
Ba năm ví biết anh còn nhớ,
Em đã câm lời, có nói đâu!

Đã lỡ, thôi rồi! chuyện biệt ly,
Càng khơi càng thấy lụy từng khi.
Trách ai mang cánh "ty-gôn" ấy,
Mà viết tình em, được ích gì?

Chỉ có ba người đã đọc riêng,
Bài thơ "đan áo" của chồng em.
Bài thơ "đan áo" nay rao bán,
Cho khắp người đời thóc mách xem…

Là giết đời nhau đấy, biết không?
….Dưới dàn hoa máu tiếng mưa rung,
Giận anh, em viết dòng dư lệ,
Là chút dư hương: điệu cuối cùng!

Từ đây, anh hãy bán thơ anh,
Còn để yên tôi với một mình,
Những cánh hoa lòng, hừ! đã ghét,
Thì đem mà đổi lấy hư vinh.

Ngang trái đời hoa đã úa rồi,
Từng mùa gió lạnh sắc hương rơi…
Buồng nghiêm thờ thẫn hồn eo hẹp,
Đi nhớ người không muốn nhớ lời!

Tôi oán hờn anh, mỗi phút giây,
Tôi run sợ viết, bởi rồi đây
Nếu không yên được thì tôi… chết
Đêm hỡi! làm sao tối thế nầy?

Năm lại năm qua cứ muốn yên
Mà phương ngoài gió chẳng làm quên;
Và người vỡ lỡ duyên thầm kín,
Lại chính là anh? anh của em!

Tôi biết làm sao được hỡi trời?
Giận anh, không nỡ! Nhớ không thôi!
Mưa buồn, mưa hắt, trong lòng ướt…
Sợ quá đi, anh…"có một người"!…

 
ĐAN ÁO CHO CHỒNG
Không rõ ngày đầu tiên được đăng
T. T. Kh. (?)

"Chị ơi! Nếu chị đã yêu,
Đã từng lỡ hát ít nhiều đau thương,
Đã xa hẳn quãng đường hương,
Đã đem lòng gởi gió sương mịt mùng.

Biết chăng chị? Mỗi mùa đông,
Đáng thương những kẻ có chồng như em,
Vẫn còn thấy lạnh trong tim,
Đan đi đan lại áo len cho chồng.

Như con chim hót trong lồng,
Hạt mưa nó rụng bên song bơ thờ.
Tháng ngày nổi tiếng tiêu sơ,
Than ôi! Gió đã sang bờ ly tan…

Tháng ngày miễn cưỡng em đan,
Kéo dài một chiếc áo len cho chồng.
Như con chim nhốt trong lồng,
Tháng ngày mong đợi ánh hồng năm nao!

Ngoài trời mưa gió xôn xao,
Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm?
Ai đem lễ giáo giam em?
Sống hờ trọn kiếp trong duyên trái đời…

Lòng em khổ lắm chị ơi!
Trong bao tủi cực với lời mỉa mai.
Quang cảnh lạ, tháng năm dài,
Đêm đêm nghĩ tới ngày mai giật mình!"

Posted in Uncategorized | Leave a comment

ĐI TÌM TÁC GIẢ BÍ ẨN T. T. Kh. – TRẦN ĐÌNH THU – BÀI THỨ 1

Tài Liệu Tham khảo ĐI TÌM TÁC GIẢ T. T. Kh. của TRẦN ĐÌNH THU gồm bốn bài viết được đăng tải ở đây, không nhất thiết phải là quan điểm của trang Vân Đài Loại Ngữ.
 
Vậy xin lứu ý quý độc giả.
Vân Đài
 

T. T. Kh là một câu chuyện chưa từng có trong lịch sử văn chương. Đó là câu chuyện về một thi sĩ bí ẩn bỗng nhiên tung lên thi đàn mấy bài thơ tình tuyệt tác làm ngẩn ngơ độc giả rồi lặng lẽ biến mất trong cái bàng hoàng sửng sốt của người yêu thơ.
 
Bảy mươi năm đã trôi qua kể từ ngày xảy ra câu chuyện kỳ lạ ấy. Rất nhiều người đã tìm cách vén lên bức màn bí ẩn của câu chuyện nhưng hầu như chưa ai làm thỏa mãn độc giả. Còn người yêu thơ vẫn luôn khát khao được biết sự thật: T. T. Kh là ai và đã vì ai mà sáng tác nên những áng thơ tình đặc sắc đó?
 
Có một số nhân vật được các nhà sưu tầm đưa ra để giả định rằng đó là T. T. Kh. Nam giới có, phụ nữ có. Trong số những "nghi can" có hai nhà thơ nổi tiếng là Thâm Tâm và Nguyễn Bính. Độc giả tưởng như đã lần ra được tung tích của con người kỳ lạ này nhưng sự thực không phải như vậy. Bởi tất cả những thông tin đưa ra đều do lời người khác kể lại. Còn bản thân những người như Thâm Tâm, Nguyễn Bính chưa bao giờ có phát biểu chính thức nhận mình là T. T. Kh. Vì thế, tuy người kể cũng là người có uy tín trong làng văn làng báo nhưng độc giả vẫn thấy mơ hồ khó tin. Việc tìm kiếm con người thật của T. T. Kh thành ra vẫn rơi vào vòng lẩn quẩn trong bao nhiêu năm qua, khiến câu chuyện thêm nhuốm màu huyền thoại.
 
Bằng cách phân tích các hình ảnh, biểu tượng, tình tiết văn học, thói quen sử dụng ngôn ngữ trong thơ, trong truyện ngắn…, tác giả Trần Đình Thu đưa ra một cách làm mới: so sánh đối chiếu với những người được cho là T. T. Kh lâu nay để nhận xét xem ai là người phù hợp nhất. Đó là cách làm khá đặc biệt so với những nhà sưu tầm khác trước đây chỉ hoàn toàn dựa vào lời kể của nhân chứng.

 
Câu chuyện tình buồn 70 năm trước

Có thể nhiều bạn đọc đã biết, đã thuộc làu thơ T.T.Kh nhưng vẫn có một số người khác chưa nắm rõ câu chuyện như thế nào. Vì thế, trước khi bước vào phân tích lý giải, chúng tôi xin dẫn lại toàn bộ câu chuyện này một cách có hệ thống. Câu chuyện T.T.Kh bắt đầu vào tháng 7/1937, khi tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy đăng một truyện ngắn mang tên Hoa ti gôn của nhà văn Thanh Châu. Nội dung truyện ngắn được tóm tắt như sau:

Có một họa sĩ nghèo mới ra trường. Trong một lần đi tìm cảnh vẽ, chàng đã gặp một thiếu nữ đang hái hoa ti gôn trong vườn. Từ đó, chàng đâm ra mê người đẹp, luôn đạp xe vào làng để ngắm trộm nàng hái hoa.

Năm tháng qua đi, chàng họa sĩ trở nên nổi tiếng. Tranh vẽ của chàng bán được giá rất cao. Họa sĩ trở nên giàu có. Một mùa đông, chàng đi vẽ ở một vùng nọ. Trong một bữa tiệc chiêu đãi, họa sĩ trông thấy một thiếu phụ. Chàng ngờ ngợ như đã từng gặp người này ở đâu. Cuối cùng nhớ ra, nàng chính là cô gái hái hoa ngày ấy. Trong khi khiêu vũ với nàng, chàng nhắc lại chuyện cũ. Nàng vô cùng ngạc nhiên.

Nàng kể chuyện cuộc đời mình cho chàng nghe. Nàng lấy một người chồng môn đăng hộ đối nhưng cuộc hôn nhân quá tẻ nhạt. Từ đó, nàng hay lui tới chỗ họa sĩ trọ để chơi và để chàng vẽ cho một bức chân dung. Chuyện gì đến đã đến. Một buổi sáng, hai người đi chơi ở một ngôi chùa trên đỉnh núi, chàng đã tỏ nỗi lòng mình. Nàng đáp lại tình yêu của chàng.

Chàng bàn với nàng trốn đi Nhật để chung sống với nhau. Nàng nhận lời. Chàng về Hà Nội, sắp đặt xong mọi việc thì nhận được thư nàng vào giờ chót. Nàng từ chối chuyến đi vì không đủ can đảm vượt qua. Trong thư, một dây hoa ti gôn nhỏ ép rơi ra. Chàng nhìn những nụ hoa hình quả tim vỡ, đỏ hồng như nhuộm máu, lặng lẽ hôn lên những cánh hoa và khóc.

Bốn năm sau, một hôm chàng nhìn thấy trên bàn mình một phong thư viền đen. Mở ra xem thì đó là của người chồng nàng báo tin nàng đã chết. Chàng đáp xe lửa đến nơi để đặt lên mộ nàng dây hoa quen thuộc. Từ đó, chàng luôn mua hoa ti gôn về đặt trong phòng mình.

Hoa ti gôn là một truyện ngắn không có gì đặc sắc nhưng nhẹ nhàng và bay bổng. Truyện ký thác một tâm sự khắc khoải, nhớ nhung hoài niệm. Hình ảnh dây hoa ti gôn được lặp đi lặp lại nhiều lần như muốn khơi gợi một điều gì đó không tiện nói ra. Tác giả của nó – nhà văn Thanh Châu, khi đó là một chàng trai trẻ 25 tuổi, vừa quyết định bước vào nghiệp văn chương. Chàng cũng vừa trải qua một chuyện tình buồn.

Hai tháng sau ngày Thanh Châu đăng truyện ngắn nói trên, một sự kiện đặc biệt xảy ra. Vào tháng 9/1937, tòa soạn tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy nhận được một bài thơ của một tác giả ký tên là T. T. Kh. Đó là bài Hai sắc hoa ti gôn, được đăng vào ngày 23/9/1937.

Bài thơ Hai sắc hoa ti gôn đã gây nên xúc động lớn trong lòng người yêu thơ bởi những câu thơ quá da diết. Giới văn nghệ xôn xao. Gần hai tháng sau, tòa soạn lại nhận được một bài thơ nữa. Bài thơ này có tựa đề là Bài thơ thứ nhất dù đó là bài thơ thứ hai gửi đến. Bài này được đăng trên số báo ngày 20/11/1937. Và một năm sau nữa, tòa soạn nhận thêm bài Bài thơ cuối cùng. Bài này được đăng trên số báo ra ngày 30/10/1938.

Từ đó, tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy không còn nhận thêm bài thơ nào của con người bí ẩn này nữa. Ngược lại, có một bài thơ cũng ký tên T.T.Kh gửi đến một tờ báo khác. Đó là Bài thơ đan áo.

Những bài thơ mang tên T.T.Kh đã làm cho độc giả bàng hoàng sửng sốt. Nhưng tác giả của nó đã lặng lẽ rời bỏ văn đàn, không bao giờ xuất hiện ở đâu nữa. Không ai biết một chút gì về con người bí ẩn này. Nghi án văn học T.T.Kh từ đó bắt đầu…

Năm 1942, Hoài Thanh – Hoài Chân xuất bản Thi nhân Việt Nam lần đầu tiên, T.T.Kh đã được đưa vào tập sách quan trọng này. Song song đó, nhiều người lại liên tục công bố những thông tin về T. T. Kh. Nào Thâm Tâm, nào Nguyễn Bính, nào em gái nhà thơ Tế Hanh, nào là Trần Thị Khánh… Rất nhiều "ứng viên".

Câu chuyện về Thâm Tâm có khá nhiều người kể. Chẳng hạn Nguyễn Vỹ, một người có mặt trong Thi nhân Việt Nam đã viết một bài dài trên Tạp chí Phổ Thông vào những năm 1960. Ông Vỹ cho biết, một buổi tối trên đường về nhà, ông gặp Thâm Tâm đang lang thang. Ông mời Thâm Tâm về nhà mình uống rượu. Ngà ngà say, Thâm Tâm cao hứng kể chuyện tình của mình. Thâm Tâm cho biết, người yêu của mình là một nữ sinh tên là Trần Thị Khánh. Nàng đã có lần gợi ý Thâm Tâm đến nhà hỏi cưới nhưng chàng bảo sự nghiệp chưa có gì. Bẵng đi một thời gian, một hôm chàng nhận được phong thư báo tin nàng sắp lấy chồng. Đã bị người yêu bỏ đi lấy chồng, lại còn bị đám bạn chế nhạo, Thâm Tâm đâm ra bị quê. Vì thế đã phải thức một đêm để làm một bài thơ tựa đề là Hai sắc hoa ti gôn, ký tên T. T. Kh. Thâm Tâm làm như vậy với dụng ý để các bạn của mình tin là của Khánh làm, cho khỏi mang tiếng bị tình phụ. Sau đó, Thâm Tâm gửi bài thơ tới tòa soạn. Về phần cô gái đó, sau khi đọc được bài thơ Hai sắc hoa ti gôn, liền viết thư phản đối Thâm Tâm kịch liệt. Thâm Tâm bèn lấy những câu chữ trong bức thư này để viết tiếp các bài thơ sau này, vẫn ký là T.T.Kh…

Ngược với Nguyễn Vỹ thì một số tác giả, chẳng hạn như Hoàng Tiến, lại cho rằng chính cô Trần Thị Khánh, cô người yêu của Thâm Tâm đã sáng tác ra những bài thơ ký tên T. T. Kh. Một số tác giả khác còn tiến thêm một bước cụ thể hơn nữa khi cho rằng Trần Thị Khánh chính là em gái họ của nhà thơ Tế Hanh…

Với Nguyễn Bính, không thấy có những câu chuyện cụ thể như trường hợp của Thâm Tâm. Người ta chỉ dựa vào bài thơ Cô gái vườn Thanh đề tên tác giả Nguyễn Bính để cho rằng Nguyễn Bính chính là T.T.Kh.

Posted in Uncategorized | Leave a comment

ĐI TÌM TÁC GIẢ BÍ ẨN T. T. Kh. – TRẦN ĐÌNH THU – BÀI THỨ 2

T. T. Kh có thể là Thâm Tâm hoặc Nguyễn Bính?

Trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu xem liệu có thể tin rằng T.T.Kh là Thâm Tâm hoặc Nguyễn Bính như một số tác giả đã khẳng định hay không.

Tác giả Hoài Việt, một người cầm bút trước năm 1945, từng quen biết với hai thi sĩ này cho biết: Thâm Tâm, Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân hồi đó là ba thi sĩ chủ chốt trong một nhóm thơ được các văn hữu mệnh danh là các nhà thơ xóm áo bào gốc liễu. Ba người tuổi tác xấp xỉ nhau, đều xuất thân từ tầng lớp dân nghèo, không được học hành nhiều ở các trường lớp chính quy, vì thế ảnh hưởng của văn học phương Tây đối với họ hầu như không có gì. Ngược lại họ là những người được học nhiều chữ Hán, chữ Nôm. Cả ba người có lúc cùng ở trọ một nhà với nhau để viết văn, làm báo. Những hoàn cảnh như trên đã ảnh hưởng đến phong cách sáng tác của nhau, hình thành nên một nhóm thơ có tên gọi như trên.

Ngoài những nét riêng biệt trong các tác phẩm của từng người thì nhóm thơ này có một đặc điểm chung. Đó là các thành viên rất thích cái giọng văn chương hiệp sĩ, ưa dùng hình ảnh những tráng sĩ lên đường thời Xuân Thu Chiến Quốc. Những tráng sĩ mặc áo bào từ trên lưng ngựa nhảy xuống đất, buộc ngựa vào gốc liễu, nghênh ngang bước vào tửu quán. Vì thế mà thơ của họ chứa đựng cái chất tráng ca, cái khí phách ngang tàng của những trang hảo hớn: "Chí lớn chưa về bàn tay không/Thì không bao giờ nói trở lại/Ba năm mẹ già cũng đừng mong" (thơ Thâm Tâm), "Kinh Kha giữa chợ sầu nghiêng chén/Ai kẻ dâng vàng, kẻ biếu tay?/Mơ gì áp Tiết thiên văn tự/Giầy cỏ gươm cùn ta đi đây" (thơ Nguyễn Bính).

Nhận định của Hoài Việt như thế rất đúng với trường hợp của Thâm Tâm. Chất giọng văn chương hiệp sĩ của ông tạo nên nét riêng biệt không ai có được. Thơ ông là thứ thơ hùng tráng. Nếu có bi thì cũng là hùng bi: "Ngươi chẳng thấy/Thao thao Hồng Hà vạn thuở chảy/Nước mạnh như thác, một con thuyền/Ta lênh đênh hoài sầu biết mấy!" (Can trường hành), "Sông Hồng chẳng phải xưa sông Dịch/Ta ghét hoài câu "nhất khứ hề"" (Vọng nhân hành). Chất rắn rỏi này không chỉ thể hiện trong những bài thơ thuộc thể hành mà cả khi Thâm Tâm làm những loại thơ khác.

Với Nguyễn Bính, ngoài cái phần chung với nhóm thơ trên mà ông ít nhiều chịu ảnh hưởng của bạn bè, thể hiện trong vài trường hợp (chẳng hạn bài Hành phương Nam) thì thơ Nguyễn Bính được bao trùm bởi cái chất quê, như Hoài Thanh nhận định trong Thi nhân Việt Nam: "Ở Nguyễn Bính thì không thế. Người nhà quê của Nguyễn Bính vẫn ngang nhiên sống như thường. Tôi muốn nói Nguyễn Bính vẫn còn giữ được bản chất nhà quê nhiều lắm". Thơ Nguyễn Bính phần lớn gần gũi với đời sống lam lũ quê mùa dù ông đang ở thành thị hay thôn quê. Từ ngữ nhiều khi quá dân dã đến nỗi một số nhà thơ thời ấy chê là ông làm hò vè: "Nuôi hai con lợn từ ngày xưa/Mẹ tôi đã tính "Tết thì vừa"/Trữ gạo nếp thơm mo gói bó/Dọn nhà, dọn cửa, rửa bàn thờ" (Tết của mẹ tôi). Ngay cả khi làm thơ tình thì Nguyễn Bính cũng quê mùa chất phác như thế: "Lòng em như quán bán hàng/Dừng chân cho khách qua đàng mà thôi/Lòng anh như mảng bè trôi/Chỉ về một bến chỉ xuôi một chiều" (Em với anh). Cái chất dân dã quê mùa, pha lẫn với một ít chất tráng ca, có lẽ ảnh hưởng từ Thâm Tâm, đã tạo nên một Nguyễn Bính khó có thể lẫn vào ai.

Đó là những nét đặc thù trong thơ Thâm Tâm và Nguyễn Bính, hai tác giả được nhiều người coi là T. T. Kh. Vậy còn thơ T.T.Kh thì sao? Ta hãy đọc lại vài khổ thơ của tác giả này: "Người ấy thường hay vuốt tóc tôi/Thở dài trong lúc thấy tôi vui/Bảo rằng hoa dáng như tim vỡ/Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi" (Hai sắc hoa ti gôn), "Anh hỡi tháng ngày xa quá nhỉ/Một mùa thu cũ một lòng đau/Ba năm ví biết anh còn nhớ/Em đã câm lời có nói đâu" (Bài thơ cuối cùng).

Bạn đọc thấy gì trong những câu thơ này? Rõ ràng đây là những câu thơ nỗi lòng của một người con gái khuê các, từ nhỏ tới lớn có lẽ quen sống trong cảnh mơ màng, không vướng bận chuyện đời thường. Nàng thích nhìn gió ngắm trăng mỗi khi cô đơn trong lòng. Nàng lại đọc tiểu thuyết mỗi khi buồn: "Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết/Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa". Gia cảnh của nàng rõ ràng là khá giả. Không phải thuộc loại "Tết đến mẹ tôi vất vả nhiều/Mẹ tôi lo liệu đủ trăm chiều" như Nguyễn Bính hay "Sinh ta, cha ném bút rồi/Rừng nho tàn rụng cho đời sang xuân" như Thâm Tâm.

Ta lướt qua những bài thơ của T.T.Kh và thấy, tác giả là người có thói quen sử dụng từ ngữ hiện đại. Có lẽ tác giả được đi học trường Tây chứ không phải đi học trường làng. Ta không tìm thấy những từ ngữ làng quê hay từ ngữ có nguồn gốc Hán-Việt nhiều ở đây. Vả lại những câu thơ như câu "Người ấy thường hay vuốt tóc tôi/Thở dài trong lúc thấy tôi vui" quá là hiện đại. Tình yêu trong thơ Thâm Tâm hoặc thơ Nguyễn Bính đâu có như thế.

Ta cần nhớ rằng vào khoảng thời kỳ 1932-1938, văn xuôi cũng như thơ Việt Nam còn đang cố gắng tìm một sự thay đổi căn bản. Về thơ, đó là sự thay thế thể thơ Đường luật gò bó bằng thể thơ tự do, tức thơ mới. Đến năm 1936, cuộc cách mạng này coi như thành công mỹ mãn. Tuy nhiên có sự phân hóa. Một số tác giả muốn cách tân một cách mạnh mẽ cả nội dung lẫn hình thức trong khi số khác lại không muốn bị "Tây hóa" quá nhiều về mặt nội dung mà chỉ muốn đổi mới chỉ hình thức thôi. Xuất hiện một lớp nhà thơ "tân" bên cạnh những nhà thơ "cựu" vốn ít học chữ Tây. Văn chương của hai tầng lớp này có một sự khác biệt rất dễ nhận ra. Nếu như Xuân Diệu đạt đến đỉnh cao của sự ảnh hưởng thơ Pháp thì Thâm Tâm lại quay về với hồn thơ Đường còn Nguyễn Bính thì chìm đắm trong kho tàng ca dao, dân ca Việt Nam để góp phần tạo nên dòng thơ Việt.

Còn thơ T.T.Kh? Ngay cả Hoài Thanh vào năm 1942 cũng đã rất ngập ngừng không dám xếp hẳn thơ T.T.Kh vào dòng thơ Việt. Cho nên, giữa thơ Thâm Tâm, Nguyễn Bính và T.T.Kh không thể nào chung trong một dòng thơ được. Thâm Tâm và Nguyễn Bính "cựu" quá trong khi T.T.Kh thì lại rất "tân".

 

T. T. Kh là “nàng” hay “chàng”?

 
Ta đã tìm hiểu qua về thơ T. T. Kh trong kỳ trước. Thật ra, ta thấy thơ T. T. Kh nghiêng về dòng thơ ảnh hưởng thơ Pháp mà Thế Lữ đã khơi nguồn và Xuân Diệu đẩy lên đến tận cùng hơn: "Hơn một loài hoa đã rụng cành/Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh/Những luồng run rẩy rung rinh lá…/Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh" (Thơ Xuân Diệu); "Ở lại vườn Thanh có một mình/Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh/Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo/Yêu bóng chim xa nắng lướt mành" (Thơ T. T. Kh).
Cũng là những câu thơ tả cảnh như thế, nhưng nó quá khác biệt khi đặt bên cạnh thơ Thâm Tâm hay Nguyễn Bính: "Thu sang trên những cành bàng/Chỉ còn hai chiếc lá vàng mà thôi/Hôm qua đã rụng một rồi/Lá theo gió cuốn ra ngoài sơn thôn" (Thơ Nguyễn Bính), "Bừng sáng, xuân bay tang tảng sương/Canh gà heo hút nẻo giang thôn/Chài ai gấp gấp giăng giăng bạc/Tiếng mác qua giời, dịp sáo non" (Thơ Thâm Tâm).
 
Thơ T. T. Kh hiện đại từ ngôn ngữ cho đến hình ảnh. Nhà văn Thanh Châu đã bỏ công tìm hiểu cách sử dụng từ ngữ của những đối tượng liên quan và đi đến nhận xét: thơ T. T. Kh không có những chữ như ly khách, cửa ải xa, xóm thanh bình, trường thành, quan san, trường đình, thét roi, cô phụ, đoạn trường như Thâm Tâm, không có những chữ như vương tơ, lão bộc, vật đổi sao dời, quay tơ, guồng tơ, hận tình, buồng the như Nguyễn Bính. Nhận xét này của Thanh Châu khá tỉ mỉ và chính xác, cho ta thấy sự khác biệt về cách sử dụng từ ngữ giữa T. T. Kh và Thâm Tâm, Nguyễn Bính. Chúng ta thấy thêm, ở Nguyễn Bính thường có xu hướng sử dụng từ ngữ địa phương mỗi khi có điều kiện, chẳng hạn "giời" thay cho "trời", "giầu" thay cho "trầu"… Như trong bài Cô gái vườn Thanh, Nguyễn Bính viết: "Vườn Thanh qua đấy năm xưa/Trọ nhờ đêm ấy giời mưa tối giời". Đây là một thói quen mà T. T. Kh không hề có.
 
Chúng ta thấy một điều rất quan trọng nữa về mặt ngôn ngữ trong thơ T. T. Kh là tác giả hầu như chỉ sử dụng từ thuần Việt. Đây là một đặc điểm cho thấy tác giả không hề hoặc rất ít được tiếp xúc với Hán học mà chủ yếu được đào tạo theo quốc học. Về mặt sử dụng hình ảnh, cũng có những điểm cho ta thấy sự khác biệt. Một ví dụ đơn giản: hình ảnh bông hoa ti gôn. Ti gôn là một thứ hoa của phương Tây du nhập vào Việt Nam trước đó không lâu. Vào thời ấy, nó là loài hoa của những gia đình trưởng giả. Nó có thể quen thuộc với những thi sĩ hiện đại như Xuân Diệu, Huy Cận, nhưng nó sẽ xa lạ với một nhà thơ chân quê như Nguyễn Bính hoặc một nhà thơ áo bào gốc liễu như Thâm Tâm. Nếu cần dùng hình ảnh một loài hoa nào đó để làm thơ thay cho người khác thì với Thâm Tâm, có lẽ ông sẽ dùng hoa gạo, hoa lý, hoa xoan… còn với Nguyễn Bính thì ông sẽ dùng hoa cải, hoa cà, hoa chanh, hoa mướp… để gợi cảm hứng. Thâm Tâm và Nguyễn Bính quyết không bao giờ dùng thứ hoa ti gôn xa lạ ấy: "Hoa chanh nở giữa vườn chanh/Thầy u mình với chúng mình chân quê" (Thơ Nguyễn Bính), "Trăm giàn lý đỏ đã lên hoa/Tâm sự in như cảnh ác tà" (Thơ Thâm Tâm).
 
Thế nhưng hình ảnh trong thơ T. T. Kh thì lại khác. Nhiều hình ảnh trong thơ T. T. Kh không thể có được trong thơ của Thâm Tâm hoặc Nguyễn Bính: nhặt cánh hoa rơi, buồn quá xem tiểu thuyết, tiếng lá thu khô… Những hình ảnh này rất "Tây", tiêu biểu cho một tầng lớp thị dân "chính cống" chứ không phải "từ quê lên tỉnh" như Nguyễn Bính.
 
Đến đây, chúng tôi muốn đi vào điều cốt lõi hơn nữa. Một điều rất rõ là khi đọc các bài thơ của T. T. Kh, người ta có cảm giác ngay lập tức tác giả phải là một người phụ nữ. Thế nhưng như đã thấy, nhiều người vẫn cho rằng T. T. Kh là đàn ông. Bởi vậy chúng ta cần tìm hiểu xem liệu có thể xảy ra điều giả định ấy được không? Điều này cũng góp phần loại bỏ bớt những "ứng viên" là nam giới.
 
Thật ra, nhiều câu thơ của T. T. Kh thể hiện rất rõ tính nữ trong đó. Đọc kỹ những câu thơ của T. T. Kh, có những câu dường như chỉ là tác giả nữ thì mới viết như thế: "Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng/Trời ơi người ấy có buồn không" (Hai sắc hoa ti gôn). Chúng ta phải thừa nhận điều này, đàn ông và phụ nữ có cách nói, cách nghĩ khác nhau. Có những điều, đàn ông nghĩ thế này nhưng phụ nữ sẽ nghĩ thế khác. Chẳng hạn người đàn ông thường lo người mình yêu bị khổ còn phụ nữ sẽ lo người mình yêu bị buồn. Cho nên là phụ nữ thì T. T. Kh mới viết câu: "Trời ơi người ấy có buồn không". Ta tin rằng Thâm Tâm hoặc Nguyễn Bính sẽ không bao giờ viết câu này nếu họ là tác giả của bài thơ. Trong ba bài thơ có khá nhiều câu thể hiện cách nghĩ cách nói của người phụ nữ mà đàn ông không thể nghĩ và nói: "Từ đấy, thu rồi, thu, lại thu/Lòng tôi còn giá đến bao giờ?/Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ…/Người ấy cho nên vẫn hững hờ". Đây là những cảm nhận hết sức tinh tế của một người phụ nữ, hơn nữa là người phụ nữ đã có chồng. Đàn ông không thể làm được những câu thơ này.
 
Chúng tôi muốn nói với bạn đọc điều này: thơ là tiếng nói của tâm hồn, là sự thể hiện ra bằng ngôn ngữ những tâm tư tình cảm của con người. Nếu là một người hóa thân thành người khác để làm thơ thì rất khó, ngoại trừ đấy là thể loại truyện thơ. Đọc những vần thơ của T. T. Kh, ta thấy tràn ngập trong đó những nỗi niềm tâm sự, những xót xa ngậm ngùi, những buồn thương uất hận: "Tôi oán hờn anh mỗi phút giây/Tôi run sợ viết bởi rồi đây/Nếu không yên được thì tôi chết/Đêm hỡi, làm sao tối thế này" (Bài thơ cuối cùng), "Là giết đời nhau đấy phải không/Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung/Giận anh em viết dòng dư lệ/Là chút dư hương điệu cuối cùng" (Bài thơ cuối cùng), "Đâu biết lần đi một lỡ làng/Dưới trời gian khổ chết yêu đương/Người xa xăm quá tôi buồn lắm/Trong một ngày vui pháo nhuộm đường" (Hai sắc hoa ti gôn)…
 
Với những câu thơ này, làm sao có thể tin rằng do một người khác phái "đóng vai" để tạo ra? Làm sao từ một câu chuyện tình phụ tầm thường nhạt nhẽo giữa Thâm Tâm với một cô gái mang tên Trần Thị Khánh nào đó mà thi sĩ viết nên được những câu thơ đớn đau thế này? Thật là ngây thơ khi chúng ta tin rằng Thâm Tâm hay Nguyễn Bính có thể là tác giả của những bài thơ mang tên T. T. Kh. T. T. Kh dứt khoát phải là một tác giả nữ.

Posted in Uncategorized | Leave a comment

ĐI TÌM TÁC GIẢ BÍ ẨN T. T. Kh. – TRẦN ĐÌNH THU – BÀI THỨ 3

Mối quan hệ giữa T. T. Kh và tác giả truyện ngắn

 

T. T. Kh đã sáng tác nên những bài thơ tình bất hủ vì chuyện ngang trái tình duyên. Điều này thì đã quá rõ. Nhưng ta cần biết ai là người đã làm cho thi sĩ đớn đau đến tột cùng khiến phải thốt ra những lời thơ thấm đẫm đầy nước mắt ấy? Đây là một câu hỏi quan trọng. Giải đáp được câu hỏi này là ta có trong tay chiếc chìa khóa để có thể mở cánh cửa đi sâu vào những ngóc ngách bí ẩn bên trong câu chuyện kỳ lạ này.
 
Hãy đọc lại bài thơ đầu tiên của T. T. Kh. Hai sắc hoa ti gôn là bài thơ hay nhất trong ba bài thơ và là bài thơ mà tác giả viết ngay sau khi đọc được truyện ngắn Hoa ti gôn. Điều dễ nhận thấy đầu tiên là bài thơ như "họa" lại truyện ngắn, từ hình thức cho đến nội dung. Khởi đầu là cái tựa: Hoa ti gôn – Hai sắc hoa ti gôn. Truyện ngắn mở đầu bằng hình ảnh một ông họa sĩ già ngày nào cũng tỉ mẩn bên những cánh hoa: "Sáng nào cũng vậy, hết giờ dạy vẽ ở trường Mỹ thuật về qua phố Tràng Tiền, họa sư Lê cũng không quên mua một bó hoa ti gôn". Chuyện tình thơ cũng bắt đầu từ những kỷ niệm êm đềm với loài hoa có cái tên Tây ấy: "Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn/Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn/Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc/Tôi chờ người đến với yêu đương".
 
T. T. Kh và Thanh Châu đã lấy cùng một loài hoa để khơi dòng tâm sự. Thứ hoa dây leo có những cành nhỏ nhắn dễ thương trổ ra vô số nụ, năm cánh chụm lại thành "hình quả tim", trong một hai ngày sẽ nở bung ra. Thế là "quả tim vỡ". "Người ấy thường hay vuốt tóc tôi/Thở dài trong lúc thấy tôi vui/Bảo rằng: " Hoa dáng như tim vỡ/Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi".
 
Hoa dáng như tim vỡ là một chi tiết quan trọng. Thật ra bây giờ khi loài hoa này đã quá nổi tiếng thì nhìn nó, người ta có thể nghĩ đến hình dáng quả tim vỡ làm nhiều mảnh nhưng vào thời điểm câu chuyện này chưa xảy ra, khó có ai nghĩ đến điều này. Quan sát kỹ nụ hoa ti gôn ta thấy rằng, thật khéo tưởng tượng thì mới nghĩ ra được như thế. Thế mà câu chuyện của Thanh Châu và câu chuyện của T. T. Kh đều xoay quanh cái chi tiết "quả tim vỡ" ấy. Không hiểu vì sao những nhân vật trong thơ và trong truyện có cách nhìn giống nhau đến vậy? T. T. Kh nói rằng đó chẳng qua chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên: "Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết/Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa".
 
Như vậy là ta đoán nhầm? Vì T. T. Kh đã nói rõ rằng hai người không quen biết gì nhau. Chẳng qua chỉ là sự tình cờ. Nhưng ta vẫn thấy có quá nhiều băn khoăn. Vì lẽ gì cánh hoa ti gôn ấy lại ám ảnh cả hai người như vậy? 
 
Trong truyện ngắn, cánh hoa ti gôn từ chỗ là nguồn cảm hứng bao la của chàng họa sĩ trẻ khi gặp người con gái cho đến chỗ là thông điệp của bi kịch khi chàng nhận phong thư báo tang viền đen có ép một dây hoa ti gôn nhỏ rơi ra. Trong bài thơ, cánh hoa ti gôn từ chỗ là niềm vui, niềm mong đợi của người con gái: “Tôi chờ người đến với yêu đương” cho đến chỗ kết thúc một mối tình: “Có thầm nghĩ đến loài hoa vỡ/Tựa trái tim phai, tựa máu hồng”.
 
Bài thơ thứ nhất nối tiếp những điều mà Hai sắc hoa ti gôn chưa nói hết: "Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên/Bỗng ai mang lại cánh hoa tim/Cho tôi ép nốt dòng dư lệ/Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên".
 
Bạn đọc hãy lưu ý đến những cánh hoa ti gôn. Không chỉ trong bài thơ trước mới có mặt chúng, loài hoa này hầu như luôn hiện diện trong câu chuyện tình buồn này. Lẽ ra ta nên gọi nghi án văn học này là nghi án văn học hoa ti gôn. Hoa ti gôn – chính thứ hoa "sắc đỏ, sắc hồng, sắc trắng năm nào cũng vậy, một mùa tàn lại một mùa nở" như lời tả trong tiểu thuyết Gánh hàng hoa của nhà văn Khái Hưng mà Thanh Châu lấy làm đề tựa cho truyện ngắn Hoa ti gôn mới là đầu dây mối nhợ của mọi chuyện. Nếu không có hoa ti gôn, ta sẽ không bao giờ có những bài thơ tuyệt tác của T. T. Kh, không bao giờ có được câu chuyện tình văn chương kỳ lạ này.
 
Nhưng ta hãy chú ý điều này: trong bài thơ thứ hai, T. T. Kh không còn nhìn những cánh hoa ti gôn với vẻ lãng mạn u buồn của nó nữa. Nàng có vẻ như giận người nhắc đến cánh hoa ti gôn: "Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên/Bỗng ai mang lại cánh hoa tim/Cho tôi ép nốt dòng dư lệ/Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên".

 
Chúng ta thấy hé lộ ra một điều không bình thường. Lúc trước nàng bảo, ngồi buồn đọc báo Tiểu thuyết thứ bảy, bắt gặp truyện ngắn Hoa ti gôn, thấy ai cũng có tâm trạng giống mình nên cảm xúc viết ra bài thơ gửi đăng báo cho vơi bớt nỗi lòng, thế mà bây giờ lại có ý trách người viết truyện.
 
Bạn đọc hỏi, có thấy nàng giận hờn trách móc chỗ nào đâu? Có đấy! Nàng trách nhưng mà trách khéo lắm. Trách mà không có lời trách. Ta hãy đọc tiếp: "Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ/Đã bọc hoa tàn dấu xác xơ". Ý nàng muốn nói rằng, còn gì đâu nữa, giờ mọi chuyện đã lỡ làng hết cả rồi, tình tan nát như loài hoa tim vỡ rồi, người nhắc đến chuyện xưa làm gì nữa.
 
Dường như nàng đang đối thoại với người viết truyện qua bài thơ. Nhưng nàng đối thoại một cách rất khéo, khiến không ai nghi ngờ điều gì. Nhờ tài hoa, nàng đã làm được điều đó mà không ai nhận thấy trong gần cả thế kỷ qua. Đây là lời dặn của nàng: "Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá/Vì tôi còn nhớ hẹn nhau xưa:/“Cố quên đi nhé câm mà nín/Đừng thở than bằng những giọng thơ".
 
Nhưng thật không may. Bài thơ cuối cùng đã làm nàng lộ tẩy. Nàng không thể giữ kín cuộc đối thoại: "Đã lỡ thôi rồi chuyện biệt ly/Càng khơi càng thấy lụy từng khi/Trách ai mang cánh "ti gôn" ấy/Mà viết tình em được ích gì?"    
 
Trách ai mang cánh "ti gôn" ấy! Bạn đọc đã thấy chưa! Thật là giấu đầu hở đuôi. Nàng đã quên cả giữ ý tứ, đi trách một người mà nàng bảo là không quen biết. Cái bọc đã không giấu nổi cây kim. Ấy là vì chuyện Bài thơ đan áo mà chúng tôi sẽ nói ở sau làm cho nàng bực bội. Đến đây, chúng ta thấy được một điều quan trọng: Hóa ra tác giả truyện ngắn Hoa ti gôn không phải là người dưng. Bởi có mối quan hệ gì thì mới đi trách người chứ!…
 
Ai là người yêu của T. T. Kh?
 
Thưa bạn đọc, chúng tôi đã có dịp nói chuyện với nhà văn Thanh Châu và chỉ ra với ông việc T.T.Kh đã trách ông. Nhà văn cũng đồng ý với chúng tôi rằng quả thật câu thơ của T.T.Kh có hàm ý như thế.

Đến đây, chúng tôi muốn tạm gác câu chuyện hoa ti gôn lại trong chốc lát để chuyển qua chuyện Bài thơ đan áo. Bài thơ này nhiều người không chịu thừa nhận là của T. T. Kh. Quả thật sự xuất hiện của nó cũng tương đối bất thường. Thứ nhất là nó không đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy mà lại đăng ở báo khác. Thứ hai là về hình thức, nó cũng khác ba bài thơ kia. So sánh với ba bài kia, Bài thơ đan áo có vẻ thô vụng hơn nhiều. Đặc biệt trong khi ba bài thơ của T.T.Kh đều là thơ bảy chữ thì Bài thơ đan áo lại theo thể thơ lục bát. Thật là vô lý khi T.T.Kh đang rất điêu luyện trong thể thơ bảy chữ lại nhảy qua thơ lục bát để rồi lúng túng trong lối thơ này đến nỗi đôi chỗ vần không được nhuyễn. Chính những vướng mắc trên đã khiến người ta nghi ngờ bài thơ này là của người khác giả mạo T. T. Kh.

Thế nhưng T.T.Kh. lại không hề lên tiếng cải chính mà ngược lại trong Bài thơ cuối cùng nàng lại nhắc đến nó: "Bài thơ đan áo nay rao bán/Cho khắp người đời thóc mách xem". Hiểu thế nào cho đúng về vấn đề này? Ai là người đã viết Bài thơ đan áo? Chúng ta nhớ một điều, Bài thơ đan áo ngoài những bất thường như nói trên còn có điểm khác biệt rất lớn với ba bài thơ kia. Đó là tác giả không viết cho người ấy mà viết cho một người chị nào đó: "Chị ơi, nếu chị đã yêu/Đã từng lỡ hái ít nhiều đau thương".

Chi tiết này lại khá khớp với Bài thơ cuối cùng. Trong bài thơ đó, T.T.Kh đã nhắc đến một người nào đó ngoài người ấy: "Chỉ có ba người đã đọc riêng/Bài thơ đan áo của chồng em". Ba người ấy là ai? Phải chăng là có mặt cả người chị trong Bài thơ đan áo?

Ở trên, chúng ta có nói đến mối quan hệ giữa tác giả truyện ngắn và tác giả thơ. Qua phân tích cuộc "đối thoại", chúng ta đã thấy được phần nào mối quan hệ "không phải người dưng" giữa họ. Tác giả truyện ngắn, tức nhà văn Thanh Châu chính là nhân vật ai mà nàng đã trách "Trách ai mang cánh "ti gôn" ấy/Mà viết tình em được ích gì". Chúng ta tiếp tục phân tích thêm. Trước hết khẳng định Thanh Châu chính là nhân vật ai trong các câu thơ. Nhưng trong thơ T.T.Kh, ngoài ai ra còn có thêm nhân vật anh: "Giận anh em viết dòng dư lệ/Là chút dư hương điệu cuối cùng". Vậy nhân vật ai này và nhân vật anh trong câu thơ trên là hai người hay một người?

Có thể có hai trường hợp: Ai là một người bạn của nàng, hoặc ai chính là người yêu của nàng, tức ai chính là anh. Nếu xảy ra trường hợp đầu thì Thanh Châu chỉ là người bạn của T.T.Kh, được biết đến chuyện tình duyên ngang trái của nàng nên cảm hứng viết nên truyện Hoa ti gôn. Nếu xảy ra trường hợp sau thì Thanh Châu chính là người yêu của T. T. Kh.

Chúng ta chú ý, trong ba bài thơ, chỉ có Bài thơ cuối cùng là nàng đối thoại trực tiếp với người yêu mình: "Anh hỡi, tháng ngày xa quá nhỉ?". Tại sao như vậy? Là vì lúc này nàng đang giận chàng. Nàng muốn nói chuyện "đâu ra đấy" với chàng một lần cho xong. Chúng ta đọc thêm khổ thơ thứ năm: "Từ đây anh hãy bán thơ anh/Còn để yên tôi với một mình". Ta thấy lúc này nàng cự cãi với chàng một cách khá căng thẳng. Có lẽ chàng vừa gây ra một lỗi lầm gì đó làm cho nàng giận. Liên hệ đến khổ thơ thứ ba có câu "Bài thơ đan áo nay rao bán/Cho khắp người đời thóc mách xem" thì ta sẽ hiểu ngay chuyện gì. Đó là chuyện Bài thơ đan áo, chàng đã lấy nó đem "rao bán" làm cho nàng bực tức. "Rao bán" là từ mà nàng ví von cho hả tức chứ thực sự là chàng đã để lọt bài thơ đó ra ngoài. Bài thơ này vì một lẽ gì đó mà nàng không muốn cho ai đọc. Việc đăng báo bài thơ này có lẽ gây nên điều gì hệ trọng lắm nên nàng đã hết sức tức giận: "Là giết đời nhau đấy biết không".

Hãy để ý thêm chút nữa. Sau khi nói xong chuyện Bài thơ đan áo, nàng liền quay sang chuyện những cánh hoa ti gôn: "Những cánh hoa lòng, hừ đã ghét/Thì đem mà đổi lấy hư vinh". Chúng ta thấy rất rõ: người gây ra chuyện Bài thơ đan áo cũng chính là người nhắc đến những cánh hoa ti gôn. Trước thì nàng cố giấu nhưng bây giờ vì đang tức giận nên nhân nói chuyện này nàng nói qua chuyện kia một thể luôn.

Như vậy thì nhân vật ai, người liên quan đến những cánh hoa ti gôn (Trách ai mang cánh ti gôn ấy) và nhân vật anh, người yêu của nàng (Anh hỡi tháng ngày xa quá nhỉ) chính là một.

Như vậy mối quan hệ là đã rõ. Thanh Châu chính là người yêu của T. T. Kh. Điều này cũng phù hợp với lời kể của nàng ở khổ thơ đầu trong Bài thơ thứ nhất rằng người yêu nàng là một chàng văn nghệ sĩ: "Thuở trước hồn tôi phơi phới quá/Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương/Nhưng nhà nghệ sĩ từ đâu lại/ Êm ái trao tôi một vết thương".

Thật sự ta đã giải mã được vấn đề quan trọng là tìm ra người ấy của T. T. Kh. Đến đây, chúng tôi muốn trở lại vấn đề ai đã viết Bài thơ đan áo. Như trên đã phân tích, bài thơ này có một số điểm khác biệt so với ba bài thơ kia về thể loại, về giá trị nghệ thuật. Tuy nhiên, có một đặc điểm quan trọng nhất thì nó lại không khác, đó là phong cách sáng tác. Bài thơ đan áo cũng được viết bởi một ngôn ngữ dung dị rất "T.T.Kh": "Chị ơi nếu chị đã yêu/Đã từng lỡ hái ít nhiều đau thương". Chúng tôi cho rằng, bài thơ này cũng là của T.T.Kh nhưng được viết trước ba bài thơ kia rất lâu. Bạn đọc có thể thắc mắc: vì sao Bài thơ đan áo không hay như mấy bài thơ kia. Đó là do hoàn cảnh sáng tác. Trước đây, T.T.Kh chỉ sáng tác để gửi cho người chị nào đó của mình đọc nên có thể cảm xúc không trào dâng bằng viết cho người mình yêu.

Posted in Uncategorized | Leave a comment

ĐI TÌM TÁC GIẢ BÍ ẨN T. T. Kh. – TRẦN ĐÌNH THU – BÀI THỨ 4

Ai có thể là T. T. Kh?

 

Quá trình lần theo dấu vết con người bí ẩn này, chúng ta đã đưa ra được một số tiêu chí để xác định ai có thể là T. T. Kh. Thứ nhất, T. T. Kh phải là một người phụ nữ. Thứ hai, T. T. Kh phải là người thân thiết với nhà văn Thanh Châu. Cụ thể hơn, người đó phải là người yêu của nhà văn Thanh Châu. Như vậy, ta phải loại bỏ tất cả các "ứng viên" là nam giới như Thâm Tâm, Nguyễn Bính, J.Leiba… cùng một số "ứng viên" nữ như Trần Thị Khánh…
 
Vậy còn lại ai sẽ là người phù hợp với T. T. Kh? Đến đây, có lẽ ta cần cho nhân vật thật xuất hiện để đối chiếu. Trong số những người phụ nữ được giả định trước đây, chỉ có một "ứng viên" duy nhất phù hợp với vị trí của T. T. Kh theo tiêu chí nói trên. Đó chính là bà Trần Thị Vân Chung, người được tác giả Thế Nhật phát hiện ra và tiết lộ trong cuốn sách T. T. Kh, nàng là ai? Đây là nhân vật đã gây ra nhiều tranh cãi trên công luận vào năm 1994.
 
Xin nhắc lại một số thông tin về bà Trần Thị Vân Chung. Bà sinh năm 1919 tại Thanh Hóa. Sinh trưởng trong một gia đình khá giả, lớn lên lập gia đình với một người đỗ cử nhân luật, có lúc làm quan tri huyện, về sau làm đến chức Tổng trưởng Quốc phòng trong chế độ Sài Gòn.
 
Về văn chương, bà Vân Chung là người thường hay làm thơ, viết văn với bút danh Vân Nương, Tam Nương… Bà tham gia nhóm thơ Quỳnh Dao – nhóm thơ của những người phụ nữ đài các trưởng giả lúc trước ở miền Nam, thường làm thơ xướng họa với nhau như một sinh hoạt tinh thần. Nữ sĩ Mộng Tuyết cũng là một trong những chủ soái của nhóm thơ này. Bà đã có một số thơ đăng trên các báo ở Sài Gòn trước năm 1975. Năm 1986, bà cùng các con xuất cảnh sang Pháp. Bà vẫn tiếp tục làm thơ đăng trên các tạp chí tiếng Việt ở nước ngoài.
 
Năm 1994, khi cuốn sách T. T. Kh, nàng là ai? ra đời, nêu đích danh tên tuổi bà Vân Chung, thì chính bà Vân Chung đã công khai lên tiếng phủ nhận mình là T. T. Kh. Thư của bà từ Pháp gửi về được đăng tải trên Thanh Niên và một số tờ báo khác. Ngoài ra có một số độc giả cũng viết bài gửi đến báo, không tin bà Vân Chung chính là T. T. Kh. Điều này đã làm nhiều người ngờ vực tính chân thực của cuốn sách nói trên. Bởi vì cuốn sách được viết ra dựa trên sự tiết lộ vô tình của một người khác là bà Thư Linh, người quen biết với bà Vân Chung sau năm 1975 chứ tác giả không có thông tin trực tiếp.
 
Nhưng bên cạnh đó, một số tác giả lại ủng hộ việc cho rằng T. T. Kh chính là Trần Thị Vân Chung. Chẳng hạn tác giả T.N trên Báo Tuổi Trẻ chủ nhật ngày 2/10/1994 viết: "Đưa ra tên tuổi thật của T. T. Kh, với đầy đủ cuộc đời, nguồn gốc. Một nghi án văn học đã quá lâu, nay lỡ biết rồi thì không thể không công bố". Tác giả Ngọc Tình trên Báo Sài Gòn Giải Phóng vào ngày 9.10.1994 cũng viết: "Cuối cùng bí mật đã được phát giác, tác giả cuốn sách giải trình đầy đủ tư liệu hơn nửa thế kỷ qua". Báo Lao Động số ra ngày 13/10/1994 viết: "Một nghi án văn học đã gần 60 năm quanh một chùm thơ nổi tiếng của tác giả T. T. Kh. Đến nay, Thế Nhật với những tư liệu và chứng cứ rõ ràng mới bật mí được câu chuyện tình lãng mạn bậc nhất trong văn học Việt Nam này".
 
Các ý kiến của người quan tâm rất không thống nhất với nhau như vậy. Riêng chúng tôi, khi xem xét lại tất cả các vấn đề, thật đáng ngạc nhiên là chúng tôi thấy bà Vân Chung có một nhân thân phù hợp với T. T. Kh đến kỳ lạ.
 
Trước hết, bà Vân Chung chính là người yêu của nhà văn Thanh Châu, tác giả truyện ngắn Hoa ti gôn. Đây là thông tin được chính nhà văn Thanh Châu xác nhận – một điều trước nay chưa từng được tiết lộ bởi người trong cuộc. Đây là một điều tối quan trọng, đáp ứng tiêu chí cần phải có của T. T. Kh (xin nhấn mạnh lại một lần nữa, bất cứ nhân vật nào, muốn là "ứng viên" để vào vị trí T. T. Kh thì theo quan điểm của chúng tôi, người đó phải là người yêu của nhà văn Thanh Châu).
 
Nhà văn Thanh Châu cùng sinh trưởng ở thị xã Thanh Hóa như bà Vân Chung, gia đình thuộc dòng dõi quan lại nhưng đến thời của ông thì gia cảnh sa sút. Ngược lại, gia đình bà Vân Chung lúc đó làm kinh doanh buôn bán, kinh tế khá giả hơn rất  nhiều.
 
Thanh Châu là bạn của người anh ruột bà Vân Chung. Ông có dịp trò chuyện với cô em của người bạn mình là bà Vân Chung khi đi trên chuyến tàu từ Hà Nội về Thanh Hóa. Cuộc gặp gỡ định mệnh này đã khởi đầu cho một cuộc tình đầy nước mắt về sau.
 
Trở về Thanh Hóa, hai người tiếp tục qua lại với nhau và tình cảm ngày càng thắm thiết. Gia đình hai bên cũng đều biết việc này nhưng cuộc tình duyên không đi đến đoạn kết vì vấn đề môn đăng hộ đối. Sau cú sốc này, Thanh Châu ra Hà Nội sống, Vân Chung ở lại quê nhà, một thời gian sau thì đi lấy chồng. Chi tiết này phù hợp với câu thơ trong Bài thơ thứ nhất: "Ở lại vườn Thanh có một mình/Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh/Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo/Yêu bóng chim xa nắng lướt mành".
 
Ra Hà Nội một thời gian, Thanh Châu nhận được tin tức từ gia đình nhắn ra cho biết bà Vân Chung chuẩn bị lên xe hoa về nhà chồng. Câu thơ tiếp theo của T. T. Kh viết đúng như hoàn cảnh của bà Vân Chung: "Và một ngày kia tôi phải yêu/Cả chồng tôi nữa lúc đi theo/Những cô áo đỏ sang nhà khác/Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều".
 
Mối tình giữa Thanh Châu và Vân Chung là một mối tình văn chương cao đẹp vì cả hai người đều có tâm hồn văn nghệ sĩ. Truyện ngắn Hoa ti gôn của Thanh Châu thể hiện đầy chất lãng mạn và những bài thơ của Vân Chung viết sau này cũng thật lãng mạn mà chúng tôi sẽ giới thiệu với bạn đọc trong kỳ tới để tiện so sánh với thơ T. T. Kh.
 
Sau khi chia tay, hai người không có điều kiện gặp lại nhau nữa vì đến năm 1954, hai miền Nam Bắc chia đôi, Vân Chung đã cùng chồng vào Nam còn Thanh Châu ở lại quê nhà. Mãi cho đến bốn mươi năm sau, khi miền Nam giải phóng, Thanh Châu mới tìm vào Sài Gòn để thăm lại cố nhân. 
 
Nhà văn Thanh Châu đã trực tiếp xác nhận chừng đó thông tin với chúng tôi. Nhưng ông không đồng ý khi chúng tôi đặt vấn đề rằng T. T. Kh chính là bà Trần Thị Vân Chung. Vì vậy, chúng ta hãy tiếp tục so sánh đối chiếu.
 
Sự phù hợp giữa Trần Thị Vân Chung và T. T. Kh
 
Chúng ta thấy, trước hết việc giả định Trần Thị Vân Chung chính là T.T.Kh đã giải quyết được nhiều vướng mắc trong nghi án. Chẳng hạn chi tiết "vườn Thanh" làm nhiều người tranh cãi kịch liệt từ bao năm nay sẽ trở nên rất đơn giản khi đưa vào đây. Nếu chúng ta chấp nhận Vân Chung là T.T.Kh thì vườn Thanh sẽ được hiểu đơn giản hơn: đó là một cách nói hoa mỹ để chỉ thị xã Thanh Hóa, nơi mà hai người có nhiều kỷ niệm trong thời gian quen biết nhau.

Chúng ta hãy xét về nhân thân bà Vân Chung để so sánh với T. T. Kh. Trong phần phân tích thơ T.T.Kh, chúng ta đã đưa ra nhận định, tác giả này phải là một người sinh trưởng trong một gia đình khá giả, thuộc tầng lớp tân học. Điều này rất đúng với trường hợp của bà Vân Chung. Và Thanh Châu cũng là một người tân học: trước học cao đẳng tiểu học Vinh, sau ra Hà Nội học trường đạo.

Một điều quan trọng nữa là tuổi của "ứng viên". Theo xác nhận của chính bà Vân Chung, thì bà sinh năm 1919, tính đến năm 1937 là bà đã 18 tuổi tròn. Đó là tính theo tuổi Tây. Còn theo tuổi ta thì đã 19. Như vậy bà hoàn toàn có thể lấy chồng hoặc chồng đi dạm hỏi vào trước năm 1937. Vậy thì đến tháng 9/1937, nếu là T.T.Kh thì bà có thể viết trong Hai sắc hoa ti gôn: "Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng/Trời ơi! Người ấy có buồn không".

Cũng cần nhắc lại là khi bà Vân Chung lấy chồng, ông Thanh Châu ở Hà Nội chứ không ở quê nhà. Vì thế cho nên Vân Chung mới nghĩ rằng ông không biết việc bà đi lấy chồng. Chi tiết này phù hợp với câu thơ "Nếu biết rằng…".

Đến đây ta tạm dừng việc so sánh đối chiếu lại một chút để đọc lại những trang viết của ông Thanh Châu. Liên quan đến nghi án này, Thanh Châu đã viết cả thảy hai tác phẩm. Một là truyện ngắn Hoa ti gôn mà từ đó có thơ của T.T.Kh "họa" lại. Hai là bài tùy bút Những cánh hoa tim vào năm 1939 để kết lại câu chuyện. Ta thấy gì trong những trang viết của Thanh Châu?

Khi xa Vân Chung ra Hà Nội, Thanh Châu đã hết sức sầu thương về mối tình ấy. Trong bài tùy bút Những cánh hoa tim đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy, ông viết: "Vì tôi thấy tôi cảm thấu hết được những cái gì là tê tái trong tình ái. Tôi có tất cả tâm sự của một người đã từng chua xót vì yêu". Đó chính là sự chua xót về mối tình giữa ông và Vân Chung mà ngày nay ông đã xác nhận.

Vào thời gian này, tiểu thuyết Đoạn tuyệt của Nhất Linh cũng vừa mới ra đời. Đó là cuốn tiểu thuyết luận đề, có ý nghĩa đả phá những tập tục hôn nhân gia đình phong kiến ngự trị ngàn năm trong xã hội Việt Nam. Thế nhưng Nhất Linh cũng không sắp xếp nổi cho nhân vật Loan của mình trốn đi với Dũng mà phải để cho hai người chia tay nhau, Loan lên xe hoa về nhà chồng, Dũng cất bước ra đi chốn hải hồ. Ấy là vì lúc này hoàn cảnh xã hội chưa cho phép nhà văn thực hiện cuộc cải cách quá mạnh mẽ như vậy, dù là trong tiểu thuyết. Bởi quan niệm cổ xưa còn hết sức nặng nề. Như thế để thấy rằng, vào thời kỳ 1935 – 1937, những cô gái dù tân học đến mấy cũng rất khó có thể thoát ra được ngoài vòng cương tỏa của chế độ gia đình phong kiến. Tình cảnh của Thanh Châu và Vân Chung có lẽ cũng tương tự như tình cảnh của Dũng và Loan.

Trong truyện ngắn Hoa ti gôn của Thanh Châu, nhân vật chính là họa sư Lê đã rủ Mai Hạnh trốn đi Nhật để cùng nhau xây cuộc đời mới. Đó là lòng khát khao của những người đang yêu trước cảnh ngang trái tình duyên. Tuy nhiên, nhân vật Mai Hạnh không đủ can đảm thực hiện vì "em không phải là loại đàn bà có thể vượt hết được những khó khăn như anh tưởng", vì "em bỗng sợ, em sợ gia đình tan tác, khổ thân thầy mẹ em". Những chi tiết, hình ảnh tiếp theo trong truyện ngắn mang đầy ẩn ý. Chẳng hạn như chi tiết nhân vật Mai Hạnh chết đi, chi tiết dây hoa ti gôn trong thư báo tang rơi ra, chi tiết họa sư Lê đặt bó hoa lên nấm mộ nàng… Những chi tiết ấy mang đầy sự trách móc, hờn giận, đớn đau. Nửa phần muốn chôn chặt tình yêu xuống đáy mồ sâu, nửa phần nhớ thương quay quắt cuồng dại mãi không thôi. Ta tin rằng những nỗi niềm của nhân vật chính là nỗi niềm của tác giả. Những hoài niệm, u uất của nhân vật về những "cánh hoa tim vỡ" là của Thanh Châu.

Năm 1939, sau khi câu chuyện T.T.Kh đã đi qua, Thanh Châu cho đăng bài tùy bút Những cánh hoa tim trên Tiểu thuyết thứ bảy. Bài tùy bút này, một mặt ông phủ nhận mọi sự dính líu đến T.T.Kh, một mặt ông giãi bày tâm sự của mình.

Chính ra Thanh Châu đã bị ám ảnh bởi những cánh hoa ti gôn khi ông viết trong Những cánh hoa tim: "Một mùa thu cũ, tôi đã ngắt những bông hoa ấy trong tay và vò nát chúng nó đi trước một giàn hoa. Đó là thời kỳ tôi ốm dậy, buổi chiều thường đi thơ thẩn trong sân". Ta nhớ rằng, tác phẩm Hoa ti gôn là truyện ngắn nhưng tác phẩm Những cánh hoa tim là tùy bút. Mà tùy bút là nói chuyện thật chứ không nói chuyện hư cấu. Thanh Châu đã vò nát những cánh hoa ti gôn vì lẽ gì? Phải chăng vì nó đã từng là "chứng nhân" một thời của tình yêu giữa ông và Vân Chung? Thanh Châu viết tiếp trong bài: "Bỗng nhiên, nhìn những cánh hoa đỏ trong tay, tôi nghĩ đến một quả tim rớm máu".

Trong những phần trước, chúng ta đã nhắc đến chuyện những cánh hoa ti gôn. Giờ đây ta lại thấy rõ hơn chút nữa. Như vậy chính ra Thanh Châu là người đầu tiên nhìn thấy bông hoa ti gôn có hình quả tim vỡ chứ không phải nhân vật truyện ngắn họa sư Lê. Giữa Thanh Châu và Vân Chung có thể đã có nhiều kỷ niệm về loài hoa "đỏ như màu máu thắm phai" này. Cho nên Thanh Châu trong một đêm buồn bã nhớ nhung hoài niệm về mối tình xưa, xót xa nghĩ lại những cánh hoa tàn úa thuở nào, đã không kìm nổi lòng mình mà cầm bút viết nên truyện ngắn để giải tỏa cảm xúc, cũng là để gửi về "vườn Thanh" cho người xưa.

Vào thời kỳ 1937, những cô gái có tâm hồn văn chương lãng mạn đều tìm đọc tạp chí Tiểu thuyết thứ bảy. Vì thế truyện ngắn này đã đến tay Vân Chung ngay lập tức. Đọc xong truyện ngắn, Vân Chung chắc chắn cũng đau lòng không kém. Trong tình cảnh như thế, thì một người như Vân Chung hiển nhiên phải làm thơ để gửi lại cho Thanh Châu. Và những bài thơ ấy, rất có thể là những bài Hai sắc hoa ti gôn, Bài thơ thứ nhất, Bài thơ cuối cùng lắm chứ? Tại sao không?

Đến đây chúng tôi muốn trở lại với riêng bà Vân Chung. Trước đây có người đưa ra một số "ứng viên" nữ, nhưng không thấy nhắc đến lý lịch văn học của những người đó. Chúng ta nhớ rằng, nếu là T.T.Kh thì dứt khoát phải là một người cầm bút. Ít ra là phải như bà Vân Chung, có thơ in thành tập, có sinh hoạt văn học nơi này nơi kia, có thơ đăng báo…
Chúng tôi đã cố gắng sưu tầm được một ít thơ của bà Vân Chung để bạn đọc có thể đánh giá chúng. Trước hết xin đọc vài câu thơ của bà Vân Chung viết về mùa thu:

            Nhớ những mùa thu trước 
            Êm cảnh thanh bình 
            Trăng ngà trải lụa thiên thanh 
            Khuôn hoa e ấp trên cành thắm tươi 
            Thế rồi 
            Bão táp mưa sa 
            Trăng tàn hoa tạ 
            Mông mênh sầu ngập biển đời 
            Trời thu lộng gió để người sầu thương 
            (BÀI THƠ CUỐI THU, 1960)
            Hơi may se cả bầu trời 
            Hàng cây lá đã vàng phơi ít nhiều 
            Nhà ai một mái tịch liêu 
            Chìm trong làng vắng tiêu điều chiêm bao 
            (VÀO THU – 1993)

Bạn đọc thấy thế nào về những câu thơ này? Có chút gì là của T.T.Kh không?
Một điều đặc biệt, bà Vân Chung luôn luôn làm thơ về mùa thu. Mười bài thơ thì có đến năm bài bà nhắc đến mùa thu rồi. Dường như bà bị ám ảnh bởi mùa thu. Đây cũng là một điểm chung với T. T. Kh.

Thơ của bà Vân Chung sau năm 1954 cho đến nay không phải là thơ hay. Hầu hết đều bình thường. Chính vì vậy mà nhiều người cho rằng bà Vân Chung không thể là T.T.Kh vì thơ bà không xứng tầm với thơ T. T. Kh. Lập luận như thế là không đúng. Thật ra không có nhà thơ nào có thể làm thơ hay suốt đời. Nhiều nhà thơ nổi tiếng nhưng về sau vẫn làm những câu thơ rất tầm thường.

Một bài thơ hay phải gắn liền với một hoàn cảnh đặc biệt. Không có hoàn cảnh đặc biệt thì khó có thể có thơ hay. Chẳng hạn Hàn Mặc Tử sẽ không thể nào sáng tác được bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ nếu người đẹp Hoàng Hoa không gửi vào cho chàng một tấm hình chụp phong cảnh bến đò Vỹ Dạ lúc chàng đang tuyệt vọng chán chường trên giường bệnh. Nếu Hữu Loan không có nỗi đau về người vợ vắn số thì không thể nào có được bài thơ Màu tím hoa sim để đời. Nếu Vân Chung là T.T.Kh thì cũng thế. Chỉ trong hoàn cảnh tình duyên ngang trái lỡ làng với người yêu một cách đớn đau tột cùng thì mới sáng tác được những câu thơ như viết bằng máu thịt ấy. Đó là những tác phẩm đỉnh cao của một người làm thơ. Đó là tinh hoa tinh huyết. Còn như Vân Chung sau này, sống một cuộc đời bình thường bên cạnh người chồng giàu sang của mình, làm sao sáng tác được thơ hay, dù trước đó có là T.T.Kh đi chăng nữa. Đó là chuyện bình thường và hợp lý.

Đến đây chúng tôi muốn thưa đôi lời với nhà thơ Vân Chung và nhà văn Thanh Châu cùng quý bạn đọc. Loạt bài này cũng như cuốn sách Giải mã nghi án văn học T.T.Kh sắp xuất bản của chúng tôi chỉ là những giả định. Tuy nhiên, dù giả định nhưng nó vẫn gợi lại những vết thương cũ trong lòng hai người. Đó là một điều đáng tiếc. Tuy vậy chúng tôi không thể không viết lại câu chuyện này. Vì nó là khát khao của người yêu thơ, muốn biết T.T.Kh là ai, vì ai mà để lại cho đời những vần thơ xao xuyến cõi lòng ấy. Chính khi xưa, Hoài Thanh cũng đã từng nhắc trong Thi nhân Việt Nam: "Bốn năm đã qua từ ngày tờ báo vô tình hé mở cho ta một cõi lòng. Ai biết "con người vườn Thanh" bây giờ ra thế nào? Liệu rồi đây người có thể lẳng lặng ôm nỗi buồn riêng cho đến khi về chín suối?". Cho đến nay, đã qua bảy mươi năm, có lẽ người đã quyết định "ôm nỗi buồn riêng về nơi chín suối" rồi. Vì thế giả định này nếu đúng chắc người cũng không lên tiếng tự nhận mình là T. T. Kh. Vậy xin hãy xem đây như là một việc làm vì lòng mến yêu con người đã để lại cho đời những vần thơ say đắm ấy để có câu chuyện này.

Trần Đình Thu

Posted in Uncategorized | Leave a comment

Gia Chánh – PHỞ BẮC

Vật liệu
(Cho mười người ăn)
Dụng cụ
Nồi nấu súp 10 lít
Vá trụng bánh phở

Vật liệu tẩy mùi bò
12 cánh hồi (Pimpinella anisum, anise stars)
20 nụ đinh hương (Syzygium aromaticum, cloves)
1 thanh quế (Cinnamomum, cinnamon) bằng ngón tay út
2 củ gừng lớn
2 củ hành tây
1 muỗng súp hột ngò

Vật liệu nấu nước lèo phở
1 kg thịt bò nạm
1 cái đuôi bò hay 1 kg xương bò
2 hộp nước lèo gà (chicken broth)
2 gói bánh phở khô
Hành, ngò, húng quế, hành tây ngâm dấm, tương đen, tương đỏ

Nguyên tắc
Hầm nhỏ lửa để giữ nước trong.

Cách nấu
1. Thịt nạm và xương bò dùng muối rửa sạch nhiều lần. Nếu mua phải miếng thịt vụn hay muốn thịt không bị rã khi hầm, có thể dùng giây bó lại như đòn bánh tét.
2. Bỏ thịt vào nồi, đổ nước lạnh cho vừa ngập, bắc lên bếp đun lửa to cho tới khi sôi.
3. Bắc xuống, đổ hết lớp nước đầu này.
4. Rửa lại thịt bò và xương bò.
5. Ðổ nước lạnh ngập 2/3 nồi thịt và xương, bắc trở lại lên bếp đun lửa to cho tới khi vừa sôi thì hạ xuống lửa nhỏ riu riu.
6. Gừng, hành tây nướng lửa nhỏ cho đến khi cháy cạnh, rửa sạch, cạo hết vết than, bỏ vào nồi hầm.
7. Hồi, quế, nụ đinh hương, hột ngò rang cháy cạnh, rửa sạch, bỏ vào giấy thấm gói lại, cột chặt bỏ vào nồi hầm.
8. Hầm lửa nhỏ riu riu từ 1.5 giờ tới 2 giờ, hớt bọt đều rồi tắt lửa để qua đêm.
9. Ðổ nước lèo gà vào nồi, đổ thêm nước cho đầy rồi hầm tiếp 2 giờ.
10. Thịt nạm vừa mềm, vớt ra để nguội làm thịt chín.
11. Nêm nước mắm ngon, muối, tiêu cho vừa miệng ăn.

Cách dọn
1. Thit nạm thái lát, bánh phở ngâm cho mềm.
2. Trụng bánh phở, rảy ráo nước, đổ ra tô, bày thịt tái, thịt nạm và hành ngò ở trên.
3. Ðổ nước lèo nóng vào tô và dọn ra mời khách.

Posted in Uncategorized | Leave a comment

Gia Chánh – VỊT TIỀM TỨ QUẢ

Vật liệu
  • Một con vịt béo, mổ moi, không lấy lòng.
  • 50 grs gừng rửa sạch, giã nát
  • Năm muỗng súp rượu
  • Một củ hành khô bóc vỏ, giã nát
  • Bốn tép tỏi bóc vỏ, giã nát
  • Ba muỗng cà phê nước tương
  • Một muỗng cà phê muối
  • Ba muỗng cà phê bọt ngọt
  • Ba muỗng càphê nước màu
  • Một chuỗi hạt sen luộc với thuốc tiêu muối cho mềm
  • Bảy củ năng (củ mã thầy) gọt vỏ, cắt nhỏ như hạt sen
  • 50 grs bạch quả bỏ vỏ, thông tâm, luộc chín
  • 50 grs đậu phọng, bỏ vỏ, luộc chín
  • Năm cái nấm hương, ngâm mềm
  • Một củ nhỏ hành tây thái hột lựu
  • 300 grs thịt nạc dăm bằm nhuyễn
  • 300cc nước dùng (nước lèo) gà
  • Nửa muỗng cà phê tiêu
  • Một muỗng rưỡi cà phê bột mì tinh
  • Hai cây cải xanh trụng với nửa muỗng cà phê thuốc tiêu muối và một muỗng súp dầu ăn, vớt ra xả nuớc lạnh, để ráo.
Cách làm vịt
  • Lấy gừng, rượu hoà lẫn ướp vịt trong và ngoài, 15 phút sau rửa sạch mùi gừng rượu, đem ra rút xương.
  • Lấy hai muỗng cà phê nước tương, nửa muỗng càphê muối, hai muỗng cà phê bột ngọt, hai muỗng cà phê nước mầu hòa chung với hành tỏi ướp vào thịt vịt trong ít nhất một tiếng.
  • Thịt nạc, hành tây, nấm hương, hạt sen, củ năng, đậu phọng, bạch quả trộn chung với một muỗng cà phê nước tương, nửa mỗng cà phê muối, nửa muỗng cà phê tiêu, một muỗng ca phê bột ngọt rồi nhồi vào bụng vịt. Lấy kim chỉ may kín lại.
  • Dùng giây gai cột đầu vịt cho ngay ngắn, xỏ hai cánh vào chỗ cắt tiết, bắt chéo để xoè hai cánh ra đằng mỏ.
  • Đổ nhiều dầu ăn (ước chừng ngập con vịt) đun nóng, thả vịt vào chiên.
  • Vịt chiên vàng, vớt ra để vào điã, cho vào chõ hấp. Khi hấp, thỉnh thoảng chế nước ấp vịt lên.
  • Đến khi vịt mềm thì lấy ra.
Cách làm nước sốt
Lấy nước dùng và nước ướp vịt đun sôi, hòa bột mì tinh, thêm gia vị và hai muỗng cà phê dầu mè và một muỗng dầu hào, đun nhỏ lửa, khuấy đều cho đến khi sôi thì bắc ra.
 
Trình bày
Bỏ vịt ra điã lớn, bày rau cải xanh để cọng dài ở chung quanh, xối nước sốt lên vịt.
Posted in Uncategorized | Leave a comment

CÂU CHUYỆN VĂN HỌC – THÁI SƠN CŨNG CÓ NGÀY TÀN? – Lãng Tử (浪子)

Trích bút ký MỘT THOÁNG TRUNG QUỐC (中国一瞥) của Lãng Tử (浪子)
 
Thi thủ Trần Ngọc Khôi, có một lần gởi cho bài thơ này:
 
Sáng đưa con đi học,
Chiều đón con về nhà,
Không thấy mình như núi.
Chỉ sợ đời mau qua.
Thái Sơn cũng có ngày tàn!
Orlando, tháng 10, 2000.
 
Không như một số người vẫn cho rằng Thái Sơn, một ngọn núi cao ngất trời, chỉ có trong thi ca để so ví với công đức trời biển của các Ðấng Sinh Thành, Thái Sơn (Tai Shan, 泰山) thật sự hiện hữu.
 
Là một địa danh nổi tiếng thuộc tỉnh Sơn Ðông, Trung Quốc (山东, 中国), quê quán của Khổng Tử (孔子, 551-479), của Mạnh Tử (孟子, 371-289), của Bồ Tùng Linh (Pu Songling, 蒲松铃,1640-1715)…, Thái Sơn đã từng là nơi dừng chân ghé lại của không biết bao nhiêu du khách thuộc đủ mọi tầng lớp, từ hàng quyền quý cao sang như bảy mươi hai (72) Ðấng Thế Thiên Hành Ðạo của các triều đại, đến những thành phần thứ dân nay đây, mai đó, đầu đội túi thơ, vai đeo bầu rượu. Thái Sơn, tuy không phải là ngọn núi cao nhất thế giới nhưng cũng đáng được truyền tụng là một ngọn núi cao, với hơn sáu ngàn (6,000) bước phải leo để lên tới cao độ một ngàn năm trăm bốn mươi lăm thước tây (1,545m) trên mực nước biển.
 
Ði từ dưới chân đến đỉnh núi, du khách có thể nhìn thấy hàng trăm bài thơ Ðường được khắc ghi trên vách đá, như dấu tích của một nền văn minh cổ xưa, mãi mãi không phai nhòa. Trong số những bài thơ được khắc ghi ấy, nếu du khách chịu khó tìm kiếm sẽ dễ dàng nhận ra bút tích của Ðỗ Phủ (Du Fu, 杜甫, 712-770), một nhà thơ nổi tiếng thời nhà Ðường (T’ang Dynasty, 唐朝, 618-907). Trên đỉnh cao bốn mùa tuyết phủ, thi sĩ, người đã sáng tác hơn 240 bài Ðường Thi trong vòng bốn (4) năm (759-763), đã phải thốt lên câu tán thán lịch sử Nhất lãm chúng sơn tiểu! mà người Việt chúng ta vẫn thường gán cho Khổng Tử. Và hơn ngàn năm sau, Cao Bá Quát (1809-1854) đồng âm phụ họa khi nhìn nhận Ngoảnh mặt lại trần hoàn coi cũng nhỏ!
 
Thế mới biết vũ trụ, thế giới thật là nhỏ bé.
 
Về không gian, một phút suy tư có thể đem con người tới một hành tinh hoàn toàn xa lạ cách trái đất chúng ta hàng triệu triệu năm ánh sáng; về thời gian, hơn một ngàn năm sau, chúng ta vẫn có thể tìm thấy những tư tưởng của cùng một cách suy nghĩ.
 
Giữa hai vô cùng, con người là chi?
 
Lãng Tử (浪子), tháng 09, 2002.
Posted in Uncategorized | Leave a comment

CÂU CHUYỆN VĂN HỌC – VỌNG NHẠC (thơ Đỗ Phủ (杜甫) Trần Nguyên Hùng (蔯元雄), Đỗ Văn Thuần (杜文纯) phiên dịch)

望嶽
岱宗夫如何
齊魯青未了
造化鍾神秀
陰陽割昏曉
盪胸生層雲
決眥入歸鳥
會當凌絕頂
一覽眾山小
 
VỌNG NHẠC
(Đỗ Phủ (杜甫) thi)
Đại tông phu như hà,
Tề Lỗ thanh vị liễu.
Tạo hóa chung thần tú,
Âm dương cát hôn hiểu.
Đãng hung sinh tằng vân,
Quyết tí nhập quy điểu.
Hội đương lăng tuyệt đỉnh,
Nhất lãm chúng sơn tiểu.
Trần Nguyên Hùng (蔯元雄) phiên âm Hán Việt.
 
VỌNG NHẠC
(thơ Đỗ Phủ (杜甫))
Tông giòng núi Đại, làm sao kể?
Tề Lỗ non xanh nào được thế!
Tạo hóa chung lòng thần tú sinh,
Âm dương đôi ngả sớm hôm rẽ.
Mở lòng thở áng mây mênh mang,
Đưa mắt nhìn chim về lặng lẽ.
Rồi lúc vượt ngàn lên đỉnh trời,
Thoáng nhìn, thấy núi con, non bé.
Trần Nguyên Hùng (蔯元雄), Đỗ Văn Thuần(杜文纯) phiên dịch.
Posted in Uncategorized | Leave a comment

LỊCH SỬ TRƯỜNG LÊ QUÝ ĐÔN (Theo Wikipedia)

Lịch sử hình thành và phát triển
Sau khi chiếm được toàn cõi Nam Kỳ, ngày 14 tháng 1 năm 1874, Thống đốc Nam Kỳ, Thiếu tướng Hải quân (Contre-Amiral) Pháp Jules François Emile Krantz (1821-1914) đã ký nghị định thành lập một ngôi trường trung học tại Sài Gòn nhằm phục vụ nhu cầu đào tạo con em những thực dân người Pháp tại Sài Gòn. Chương trình giảng dạy theo chính quốc, dạy từ tiểu học đến tú tài (chương trình Pháp). Trường sở được khởi công xây dựng ngay vào năm 1874 và hoàn tất vào năm 1877.
 
Lúc đầu trường có tên Collège Indigène (Trung học bản xứ), không lâu sau, được đổi tên thành Collège Chasseloup Laubat, theo tên Bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại (còn gọi là Bộ Thuộc địa) lúc bấy giờ là François Marquis de Chasseloup-Laubat (1754-1833).
 
Collège Chasseloup-Laubat
Ban đầu, trường chỉ nhận các học sinh người Pháp, đến đầu thế kỷ 20 thì mở rộng để nhận thêm học sinh người Việt, tuy nhiên phải có quốc tịch Pháp. Do đó, trường phân biệt thành 2 khu:
Khu dành riêng học trò người Pháp, gọi là Quartier Européen.
Khu dành cho học trò Việt có học thêm giờ tiếng Việt, gọi là khu bản xứ hay Quartier Indigène.
Cả 2 khu này đều học chung chương trình Pháp và thi tú tài Pháp.
 
Tuy là một khu trường dành cho những người có quốc tịch Pháp (do đó, trường còn có tên là trường Bổn Quốc Sài Gòn, khác với các trường Bản Xứ khác), vào năm 1926, những học sinh người Việt đã viết lên bảng 4 chữ A.B.L.F, viết tắt câu "A bas les Français" (nghĩa là "Đả đảo người Pháp") trong một lần bãi khoá để tang nhà chí sĩ Phan Chu Trinh.
Sau năm 1954, với dụng ý tránh gợi nhớ thời thuộc địa, trường được đổi tên là Jean-Jacques Rousseau, dạy chủ yếu là học sinh người Việt, nhưng vẫn do người Pháp quản lý. Đến 1967, trường được trả lại cho người Việt Nam và trở thành Trung Tâm Giáo Dục Lê Quý Đôn. Từ 1975, chính quyền Việt Nam vẫn giữ tên gọi Lê Quý Đôn cho ngôi trường này vì tính cách bất khuynh đảo của nhân vật lịch sử này.
 
Kiến trúc khu trường
Trải qua hơn một thế kỷ, kiến trúc ban đầu của ngôi trường vẫn còn gân như nguyên vẹn, gồm bốn dãy nhà cao hai tầng ghép lại có hình chữ "khẩu". Với lối kiến trúc mang đậm chất Tây Âu, trường sở được xem như một kiến trúc cổ có lịch sử văn hóa lâu đời, vẫn giữ gìn được nét truyền thống cổ kính mặc dù đã được trùng tu, sửa chữa. Dựa trên nền kiến trúc cổ, hiện tại trường sở đã xây thêm một số công trình phụ gồm nhà luyện tập thể thao và 10 phòng học kiểu mới. Tính truyền thống và hiện đại được nhà trường chú ý ngay trong khâu thiết kế và trang trí, vì thế ngôi trường Lê Quý Đôn vẫn mang đậm nét cổ kính.
Posted in Uncategorized | Leave a comment